Thông ba lá

(Nguồn tài liệu:  Giáo trình Thực vật rừng, Trường Đại học Lâm nghiệp. Các tác giả, Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên ; Địa chỉ xuất bản, Nxb Nông nghiệp ; Ngày xuất bản, 2000).

Nguồn tài liệu: “Phạm Hoàng Hộ: Cây cỏ Việt Nam; Thông ba lá; Quyển 1 trang 219 số thứ tự loài 877”

(Phạm Hoàng Hộ: Cây cỏ Việt Nam Quyển 1;2;3. Số đăng ký XB 206/84 do cục xuất bản cấp 19-3-1999; nộp lưu chiếu tháng 7/1999)

Tên thường dùng: Thông ba lá

Tên khác: không

Tên khoa học:  Pinus kesiya Royale ex Gordon

Tên khoa học rút gọn thường dùng: Pinus kesiya

Họ thực vật: họ thông Pinaceae

Đặc điểm sinh học và sinh thái

Sinh học: thuộc cây lá kim (có 3 lá trên 1 bẹ); rễ cây có nấm sống cộng sinh. Thông ba lá sinh sản bằng bào tử, bào tử cái có noãn cầu, bào tử đực có bao phấn; các bào tử hợp lại thành nón cái và nón đực. Hạt có cánh đính trên lá bào tử cái “hạt trần”; hạt phát tán nhờ gió, phôi có từ 6 đến 9 lá mầm, tái sinh bằng hạt khá tốt.

Sinh thái: thích hợp với đất chua nhẹ, thành phần cơ giới trung bình thoát nước; nơi có lượng mưa từ 1500-2000 mm, nhiệt độ trung bình trên năm 26-290C. Có thể trồng thông ba lá nơi đất nghèo dinh dưỡng, loài không sống được ở nơi đất kiềm cao hoặc mặn.

Phân bố: loài mọc tự nhiên ở trên các vùng núi cao nhiệt đới Ấn Độ, Trung Quốc, Lào. Ở  Việt Nam phân bố tập trung ở các tỉnh Lâm Đồng và Hoàng Su Phì (Hà Giang), Gia Lai, Kon Tum.

Giá trị: giá trị gỗ thông ba lá được sử dụng trong xây dựng, đóng đồ gia dụng; làm nguyên liệu sản xuất bột giấy chất lượng cao. Nhựa thông ít hơn so với một số loài thông khác vẫn mang lại giá trị kinh tế. Giá trị môi trường góp phần bảo vệ đất, chống xói mòn; bảo tồn đa dạng sinh học trong hệ sinh thái rừng.

Tinh dầu thông có tính sát trùng mạnh nên có công dụng làm thuốc ho, thuốc xông họng.

Tình trạng: thông ba lá thành phần chính trong hệ sinh thái rừng tỉnh Lâm Đồng, hiện có khoảng 3100 ha thuộc rừng tự nhiên; diện tích rừng thông ba lá ở Gia Lai Kon tum có khoảng 500ha.