Cây Phi Lao

(Nguồn tài liệu: Giáo trình Thực vật rừng, Trường Đại học Lâm nghiệp. Các tác giả, Lê Mộng Chân Thị Huyên ; Địa chỉ xuất bản, Nxb Nông nghiệp ; Ngày xuất bản, 2000).

Nguồn tài liệu: “Phạm Hoàng Hộ: Cây cỏ Việt Nam; Phi lao; Quyển 2 trang 667 số thứ tự loài 6662”

(Phạm Hoàng Hộ: Cây cỏ Việt Nam Quyển 1;2;3. Số đăng ký XB 206/84 do cục xuất bản cấp 19-3-1999; nộp lưu chiếu tháng 7/1999)

Tên thường dùng: Phi lao

Tên khác: dương; dương liễu

Tên khoa học: Casuarina equisetifolia L. Ex Forst

Tên khoa học rút gọn thường dùng: Casuarina equisetifolia

Họ thực vật: họ phi lao Casuarinaceae

Đặc điểm sinh học và sinh thái

Sinh học: cây gỗ lớn cao 20 – 25 mét, đường kính tới 50 – 60 cm, cành nhỏ chia đốt, lá tiêu biến thành vảy nhỏ; cành non có màu xanh lục, phi lao quang hợp ở cành. Qủa dạng phức, hạt có cánh tái sinh hạt tốt.

Sinh thái: cây mọc nhanh thích nghi rộng với nhiều loại đất, cây sinh trưởng phát triển được ở đất cát ven biển.

Phân bố: phi lao nhập nội năm 1896 từ nước Úc được trồng nhiều ở các tỉnh Việt Nam.

Giá trị: phi lao có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường làm giảm cường độ gió bão, ngăn cản cồn cát di động vùi lấp đất nông nghiệp vùng ven biển. Gỗ cứng nặng sau khi xử lý có thể làm gỗ xây dựng, làm chuồng trại chăn nuôi; có thể chế tác cắt tỉa tạo thành bon sai từ phi lao rất có giá trị.

Tình trạng:  hiện nay phi lao được gieo trồng ở nhiều địa phương đã mang lại nhiều lợi ích cung cấp gỗ, củi và cải tạo môi trường và cảnh quan vùng ven biển nắng nóng.